Trẻ sơ sinh có quyền thừa kế không?
Căn cứ theo Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế như sau:
Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định này, người thừa kế có thể là người đang sống tại thời điểm mở thừa kế hoặc người đã thành thai trước khi người để lại di sản qua đời và sinh ra, còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Do đó, trẻ sơ sinh hoàn toàn thuộc đối tượng được hưởng quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Phần di sản thừa kế của trẻ sơ sinh khi chia theo pháp luật có bằng người khác?
Việc chia di sản thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, khi di sản được chia theo pháp luật, nếu trẻ sơ sinh thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản thì phần di sản mà trẻ nhận được sẽ bằng với phần di sản của những người thừa kế khác cùng hàng.
Tuy nhiên, do trẻ sơ sinh chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, phần di sản này sẽ do người giám hộ của trẻ quản lý cho đến khi trẻ đủ tuổi thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định.
Nghĩa vụ quản lý tài sản thừa kế của trẻ sơ sinh được quy định ra sao?
Nghĩa vụ của người giám hộ trong việc quản lý tài sản của người được giám hộ (bao gồm cả tài sản thừa kế của trẻ sơ sinh) được quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 59. Quản lý tài sản của người được giám hộ
1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.
Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều này.
Theo đó, người giám hộ khi quản lý tài sản thừa kế của trẻ sơ sinh có các nghĩa vụ chính sau:
- Phải quản lý tài sản đó cẩn thận như tài sản của chính mình.
- Chỉ được thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản đó vì lợi ích của trẻ sơ sinh.
- Đối với các giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn (bán, trao đổi, cho thuê, thế chấp…), phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ (nếu có).
- Tuyệt đối không được đem tài sản thừa kế của trẻ sơ sinh để tặng cho người khác.
- Các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản giữa người giám hộ và trẻ sơ sinh đều vô hiệu, trừ trường hợp thực hiện vì lợi ích của trẻ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.