Do có quen biết nhau từ trước nên bà Ninh có cho bà Qúy vay số tiền là 2 tỷ để đáo hạn ngân hàng. Sau khi đáo hạn xong thì bà Qúy trả tiền lãi và gốc 2 tỷ đầy đủ cho bà Ninh. Vì tin tưởng nên sau đó bà Ninh tiếp tục cho bà Qúy vay số tiền 5 tỷ đồng,
hai bên có làm giấy vay tiền, tuy nhiên vì kinh doanh thua lỗ nên bà Qúy không có khả năng trả nợ cho bà Ninh. Nhiều lần bà Ninh yêu cầu bà Qúy trả nợ nhưng bà Qúy không chịu trả số tiền 5 tỷ đã vay bà Ninh mà chỉ hứa là mỗi tháng trả cho bà Ninh số tiền 300.000.000 đồng, nếu công việc thuận lợi sẽ tăng số tiền trả hàng tháng lên 500.000.000 đồng. Bà Ninh không đồng ý mà yêu cầu bà Qúy phải trả đủ 5 tỷ cho bà Ninh. Nay bà Ninh muốn kiện bà Qúy tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có được không?
Trả lời:
– Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
– Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
– Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Theo quy định, hợp đồng vay tài sản là một sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay có trách nhiệm hoàn trả tài sản cùng loại, đúng số lượng và chất lượng, chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Trong trường hợp người vay tiền từ cá nhân hoặc tổ chức tín dụng, khi đến hạn trả nợ mà người vay không có khả năng hoặc không trả nợ đúng hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi theo lãi suất chậm trả được quy định bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc theo quy định của pháp luật. Đây được coi là một tranh chấp dân sự phát sinh từ thỏa thuận vay tiền giữa hai bên. Người cho vay cũng có quyền khởi kiện đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu đòi lại tài sản đã cho vay và các khoản lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật nếu người vay không hoặc chậm trả nợ theo cam kết thỏa thuận.
Trong trường hợp khi người vay không còn khả năng trả nợ, nhưng vẫn cung cấp thông tin gian dối để vay tiền và ý thức rằng không thể trả nợ và không có ý định trả nợ, thì mới được coi là hành vi lừa đảo. Khi đến hạn trả nợ theo thỏa thuận đã cam kết, người cho vay yêu cầu hoàn trả lại số tiền người vay đã vay như đã thỏa thuận, nhưng người vay lại sử dụng các hành vi gian dối như hứa hẹn, khất lần, quanh co, cung cấp thông tin cá nhân giả, tắt điện thoại, hoặc thậm chí bỏ trốn khỏi nơi cư trú để trì hoãn việc trả nợ. Hành vi như vậy có thể có dấu hiệu vi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), với mức hình phạt tù cao nhất là 20 năm hoặc án chung thân.
Trong trường hợp trên, bà Qúy vay tiền bà Ninh để làm ăn kinh doanh, nhưng kinh doanh thua lỗ nên không thể trả nợ như đã cam kết với bà Ninh như ban đầu; bà Qúy cũng có thiện chí trả nợ cho bà Ninh hàng tháng và khi vay tiền bà Qúy không dùng các thủ đoạn gian dối để tạo niềm tin cho bà Ninh để vay tiền và đến hạn trả nợ bà Qúy vẫn cam kết trả nợ cho bà Ninh mà không có dấu hiệu trốn tránh việc trả nợ. Đây là vụ việc dân sự, do đó bà Ninh có thể khởi kiện bà Qúy đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu đòi lại số tiền 5 tỷ đã cho bà Qúy vay theo quy định của pháp luật.
Như Quỳnh
Đỗ Như Quỳnh