Chia di sản thừa kế đối với những người con không cùng mẹ

Ông nội tôi có hai người vợ, nhưng sau đó ông nội tôi đã ly hôn với bà hai và sống với bà cả là bà nội tôi. Ông nội tôi có tất cả 05 người con với cả hai bà vợ, trong đó 04 người con gái với bà cả, 01 con trai với bà hai (chú tôi là con bà hai sống

cùng mẹ ở nơi khác). Năm 1983, cô út tôi lấy chồng và dọn về ở cùng ông bà nội tôi. Khi còn sống, ông tôi vẫn nói mảnh vườn đó chia cho chú tôi và cô tôi mỗi người một nửa nhưng ông không viết thành di chúc. Năm 1987, ông nội tôi mất, năm 1994, cô tôi sang tên bìa đỏ cả mảnh vườn đó cho cô mà không có phần của chú tôi (lúc này các chị em của cô tôi không ai được biết, vì bà nội tôi còn sống nên các con không để ý vườn đất). Năm 2016, bà nội tôi mất. Năm 2019, các chị em của mẹ tôi mới bàn đến việc chia vườn cho chú tôi để chú về làm tròn nghĩa vụ thờ cúng ông bà thì mới biết cô tôi đã sang tên bìa đỏ tên của cô. Vậy tôi xin hỏi: Việc cô tôi sang tên bìa đỏ vào năm 1994 (sau khi ông tôi mất 07 năm) có đúng pháp luật không? Pháp luật quy định việc chia di sản thừa kế của ông bà nội tôi như thế nào?

Trả lời

– Điều 623 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

– Điều 649 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.

– Điều 650 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật

“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.

– Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật như sau:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

– Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”

Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Ông, bà nội bạn là đồng sở hữu quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Năm 1987, ông nội bạn chết, không để lại di chúc. Tuy cô út của bạn sống cùng ông, bà nội bạn từ năm 1983 nhưng theo dữ liệu bạn cung cấp không có căn xác định ông, bà nội bạn đã tặng cho/để lại thừa kế mảnh đất trên cho cô út. Do đó, năm 1994 (sau khi ông nội bạn chết 7 năm và không để lại di chúc), cô út bạn thực hiện thủ tục sang tên bìa đỏ mảnh đất trên, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi không có sự đồng ý của tất cả những người thừa kế của ông nội bạn là không đúng quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về thi hành Luật TTHC” thì đối với trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước ngày 10/9/1990 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản kể từ ngày 10/9/1990. Do đó, ông nội bạn chết năm 1987 thuộc trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của ông nội bạn được tính từ ngày 10/9/1990, đến nay (tháng 9/2024) là 34 năm nên thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế đối với phần di sản thừa kế của ông nội bạn trong khối tài sản chung của ông, bà nội bạn đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Do đó, phần di sản của ông nội bạn trong thửa đất trên sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015. Bà nội bạn chết năm 2014 nên nay những người con của ông bà nội bạn chỉ có thể yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của bà nội bạn trong thửa đất trên. Nếu bà nội bạn cũng không để lại di chúc thì phần di sản này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ Luật dân sự 2015.

Như Quỳnh

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang