Làm thiệt hại đến sức khỏe thì phải bồi thường như thế nào?

Đang đi bộ ở lề đường bên phải thì cháu tôi đã bị một người đi xe máy trong tình trạng say rượu, chở ba, đâm thẳng phía sau, hất tung người cháu tôi về phía trước. Cú đâm đã làm cháu tôi gãy xương đùi và chấn thương sọ não, đã được đưa vào bệnh viện

cấp cứu và điều trị. Sau hơn gần 2 tháng điều trị, cháu tôi đã có thể tự thở được nhưng vẫn hôn mê, gia đình tôi phải tập trung điều trị cho cháu. Trong thời gian đó, người gây tai nạn và gia đình người gây tai nạn cho cháu tôi không đến thăm hỏi và cũng không bồi hoàn số tiền mà gia đình tôi đã chi trả để cấp cứu cho cháu. Sau hơn 5 tháng, cháu tôi đã bắt đầu tỉnh, được xác định mất 85% sức khỏe. Sau 02 năm điều trị, tình trạng của cháu tôi mới tạm ổn nhưng trên người vẫn còn rất nhiều di chứng do chấn thương sọ não để lại. Trong thời gian gia đình tôi tập trung chữa trị cho cháu tôi thì gia đình người gây tai nạn đã tẩu tán tài sản và còn phao tin sai sự thật là bán tài sản đi để đền bù thiệt hại cho nhà tôi. Đề nghị cho biết trường hợp của cháu tôi bị tổn hại sức khỏe vĩnh viễn đến mức không thể lao động gì được mà đến nay vẫn phải điều trị thì các khoản chi phí để điều trị, nuôi dưỡng và chăm sóc đó sẽ được giải quyết như thế nào? 

Trả lời

– Khoản 72 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sau đây:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại như sau:Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.

Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được như sau:

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.

Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:

1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

– Điều 590 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như sau:

“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

– Điều 593 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm như sau:

“1. Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau đây:

a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

b) Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

3. Đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống”.

Do nội dung câu hỏi của bạn không thể hiện từ thời điểm xảy ra tai nạn đến nay, phía gia đình bạn đã có những yêu cầu về bồi thường thiệt hại cho cháu bạn hay đã gửi đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết chưa? Tuy nhiên, trên cơ sở dữ liệu bạn cung cấp, đối với trường hợp này thì người gây tai nạn có thể vi phạm hình sự về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại Khoản 72 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 và phần bồi thường dân sự sẽ giải quyết trong bản án hình sự khi giải quyết vụ án (nếu đương sự có yêu cầu). Đồng thời, pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp tai nạn giao thông là 03 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn. Do vậy, bạn có thể nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nơi mà người gây tai nạn đang cư trú, kèm theo hồ sơ về vụ việc tai nạn. Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ việc (nếu còn thời hiệu khởi kiện và đúng thẩm quyền), Tòa án sẽ tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ như: Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giám định thương tật đối với em bạn, yêu cầu gia đình bạn cung cấp các giấy tờ liên quan đến việc điều trị bệnh, tài liệu chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, chi phí chăm sóc người bệnh… Trên cơ sở đó, Tòa án sẽ áp dụng Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại để xem xét thiệt hại thực tế, mức độ lỗi của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại (nếu có)…..Tùy theo mức thiệt hại cụ thể, Tòa án áp dụng Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị… và những thiệt hại khác do luật quy định. Trường hợp cháu bạn bị mất hoàn toàn khả năng lao động thì Tòa án áp dụng Điều 593 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hạn cháu bạn được hưởng bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.

Như Quỳnh